NỐI KẾTTRUYỀN THÔNG

TRANG CHỦDIỄN ĐÀNLIÊN HỆ
CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI GIA TRANG GIÁO XỨ VƯỜN CHUỐI




GIÁO HỘI HIỆP HÀNH

ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ

PHIM KHÚC

Tham gia vào đời sống Giáo Hội

Tội lỗi & Thương xót | Tìm hiểu về Cựu Ước

HÌNH ẢNH

THIÊN CHÚA-Ba Ngôi, Mầu nhiệm Tình yêu (1)
24.05.2013 10:05

THIÊN CHÚA-Ba Ngôi, Mầu nhiệm Tình yêu (1)

Vì là Mầu Nhiệm, tức là một thực tại vượt lên trên nguyên lý nhân-quả, nên Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi chỉ có thể tiếp cận qua hành vi chiêm ngắm để mà tán tụng, chứ không phải là “đối tượng” để mà lý giải, hay giải thích.

Người ta có thể tiếp cận với Mầu Nhiệm vĩ đại nầy từ nhiều góc độ khác nhau. Ở đây, cách hữu ý, chúng tôi cố gắng tiếp cận mầu nhiệm nầy qua ba góc độ :

1. Từ những nghịch lý trong hiện sinh kitô;

2. Từ một số hiểu lầm và ngộ nhận trong lịch sử;

3. Thiên Chúa-Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Tình Yêu.


I- TỪ NHỮNG NGHỊCH LÝ TRONG HIỆN SINH KITÔ 

Dù, trên lý thuyết, vẫn được coi như là Mầu Nhiệm trung tâm, là Mầu Nhiệm vĩ đại nhất trong các mầu nhiệm, là Nguyên Lý của hiện sinh kitô, của Giáo Hội, nhưng trên thực tế, có vẻ như Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi “chẳng là gì cả” đối với rất nhiều kitô-hữu, như nhận định của I. Kant :

“Từ giáo thuyết về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, theo sát từng chữ, tuyệt đối chẳng có thể rút ra được điều gì cho thực hành cả, ngay giả như khi người ta tin là hiểu được giáo thuyết đó. Sở dĩ là thế, vì lẽ rằng người ta vốn nhất trí với nhau để coi giáo thuyết đó như vượt ra ngoài mọi khái niệm.” [1]

“Tôi còn dám cho rằng nếu như người ta có nghĩ đến chuyện loại bỏ ra khỏi các bản văn tôn giáo cái gì có liên quan giáo thuyết về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi (giả dụ như giáo thuyết nầy là sai !), thì đại đa số các bản văn trên thực tế cũng chẳng có gì phải thay đổi cả.” [2]

Dù cách máy móc vẫn được “sử dụng” rất nhiều trong đời sống thường ngày (trước khi ăn, uống, uống thuốc, tắm rửa, ngủ nghỉ, vào sân đá bóng, sau khi “làm bàn”, v.v…), cũng như trong các cử hành phụng vụ, nhưng người ta cũng chẳng mấy ý thức là mình đang tuyên xưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, thậm chí, không hiểu gì…

Giáo Hội kitô đã để lại một truyền thống đạo đức bình dân vô cùng đẹp đẽ, đó là việc tuyên xưng mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi trong tất cả mọi khoảnh khắc của đời sống, và cám ơn Chúa (!), người kitô-hữu vẫn “giữ” nó, vẫn “sử dụng” nó, vẫn “thực hành” nó, nhưng đáng buồn thay phần lớn không biết hoặc không ý thức là mình đang “tuyên xưng” Ba Ngôi Thiên Chúa !

Trước khi làm bất cứ việc gì, người kitô đều tuyên xưng là sẽ làm tất cả những điều đó “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”, và mục đích của tất cả mọi hành động của họ đều nhắm vào việc “sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần’. Qua những tuyên xưng đó, người kitô-hữu muốn nói lên rằng Thiên Chúa-Ba Ngôi chính là Nguyên Lý, và là Cùng Đích của toàn bộ hiện sinh kitô của họ. Một hành vi tuyệt vời như thế vốn đã được truyền thống của Giáo Hội lưu giữ suốt hơn hai ngàn năm, thế nhưng, điều đáng tiếc là người kitô dù vẫn thực hành truyền thống đạo đức bình dân đó, nhưng chẳng hiểu, chẳng ý thức gì việc mình đang làm. Phần đông người ta chỉ thực hành điều đó cách máy móc, và chẳng mấy ý thức việc mình đang làm và điều mình đang tuyên xưng !

Ngoài ra, dù trên môi miệng vẫn “tuyên xung” Ba Ngôi Thiên Chúa (Cha, và Con và Thánh Thần), nhưng trên thực tế, có vẻ như không ít người kitô-hữu lại có khuynh hướng “độc vị” hơn là “tam vị”, theo như nhận xét của Bruno Forte :

“Thiên Chúa của những người kitô-hữu liệu có phải là vị Thiên Chúa của Đức Kitô không ? Vấn nạn nầy, thoạt tiên, có vẻ nghịch lý, nhưng nảy sinh cách tự nhiên, nếu như người ta xem xét cách thức mà nhiều người kitô-hữu tự trình bày cho mình vị Thiên Chúa của họ. Trong diễn từ diễn tả, họ nói về Ngài như về một ‘Ngôi Vị’ thần linh nào đó mơ hồ, ít nhiều đồng hóa với Đức Giêsu của các sách Tin Mừng, hay như một hữu thể cao vời nào đó, cũng chẳng có gì chính xác hơn. Trong kinh nguyện, họ nói với vị Thiên Chúa khá bất định nầy, trong khi cách thức mà phụng vụ dùng để nói với Cha qua Đức Kitô trong Thần Khí thì lại bị coi như là kỳ quặc, nếu không muốn nói là tối tăm khó hiểu : người ta cầu nguyện Thiên Chúa, nhưng không biết cầu nguyện trong Thiên Chúa ! Có một tình trạng không thể chối cãi là nhiều kitô-hữu, ‘mặc dù trong những tuyên xưng đức tin về Thiên Chúa-Ba Ngôi hoàn toàn là chính thống, nhưng trong cụ thể đời sống tôn giáo thì lại hầu như theo khuynh hướng “độc vị” (“monothéistes”)’.” [3]

Tại sao lại có những tình trạng nghịch lý đáng buồn đó trong hiện sinh kitô trong tương quan với Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi ?


II. TỪ MỘT SỐ HIỂU LẦM VÀ NGỘ NHẬN TRONG LỊCH SỬ 

Tình trạng đáng buồn đó, đã hẳn, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả lý thuyết và cả thực hành, mà sau đây là một vài trong số đó, vốn mang tính bao trùm :

1. Việc đưa những khái niệm triết học (bản thể, bản tính, yêu tính, ngôi vị, tương quan, v.v…) vào trong thần học về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi;

2. Vai trò của thần học cổ điển và kinh viện;

3. Việc đối kháng giữa hai khái niệm “Un Dieu” (“Một Thiên Chúa”) và “Dieu Un” (“Vị Thiên Chúa là Một’)

II.1 Việc du nhập các khái niệm triết học vào thần học về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi 

Công đồng đại kết I NIXÊ (năm 325) có lẽ là công đồng đầu tiên du nhập khái niệm triết học vào trong bản Tuyên Tín của mình.

Và một điều cần lưu ý ngay là vào thời điểm nầy (năm 325), các cộng đoàn kitô, đặc biệt Tây phương, vẫn còn khá lơ mơ về các khái niệm triết học nầy. Kho từ vựng thần học kitô chỉ mới bắt đầu và chưa định hình gì cả. Ranh giới giữa các khái niệm triết học vẫn còn lờ mờ chưa phân biệt rõ.

Để diễn tả việc Đức Giêsu-Kitô, Con và Ngôi Lời Thiên Chúa làm người là Thiên Chúa như Chúa Cha, bởi vì được sinh ra từ Chúa Cha, Công đồng NIXÊ I, trên cơ sở loại suy, cho rằng cũng như người thì sinh ra người, ngựa thì sinh ra ngựa, nghĩa là cả hai phải có cùng chung điều mà sau nầy người ta mới hiểu đó là bản tính (natura), cũng vậy Thiên Chúa thì sinh ra Thiên Chúa. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ Công đồng NIXÊ đã sử dụng hạn từ “ousia” mà sau nầy vốn được hiểu như là “bản thể” (“substantia”), chứ không phải hạn từ “bản tính” (“natura”). Chính khái niệm “natura” (có nguồn gốc từ động từ La ngữ “nasci”) mới diễn tả tình trạng có cùng chung bản tính giữa cha và con, giữa kẻ sinh ra con và kẻ được sinh ra.

“Cũng như lối nói bản thể của Cha chẳng thêm gì cho ý niệm được sinh ra từ Cha, cũng vậy, lối nói đồng bản thể với Cha (hay nói theo ngôn ngữ của Thánh Hilariô : ‘unius substantiae cum Patre’) chẳng thêm gì cho ý niệm Thiên Chúa được sinh ra từ Thiên Chúa, ánh sáng được sinh ra rừ ánh sáng, Thiên Chúa thật được sinh ra từ Thiên Chúa thật, nhưng chỉ là để nói rõ ý nghĩa của những hạn từ nầy : là Thiên Chúa được sinh ra từ Thiên Chúa, nên Con đích thực có chính bản thể của Thiên Chúa. Bởi vì Con là Thiên Chúa do tự nguồn gốc, nên Con là Thiên Chúa do tự bản tính.” [4]

Thời kỳ nầy, ngoài việc lẫn lộn giữa hai khái niệm “substantia” (bản thể) và “natura” (bản tính), còn có sự lẫn lộn giữa hai hạn từ “ousia” và “hypostasis”, khiến đã tạo nên phong trào chống đối tẩy chay những biểu thức của Công đồng NIXÊ I khá mạnh mẽ, mà đầu tàu là linh mục Arius :

“Nguyên do thứ nhất hệ tại chính khái niệm ousia. Khái niệm nầy, trước tiên, được sử dụng như một điều khá quen biết. Nhưng rồi, nó đã gây ra khó khăn, kể từ khi người ta bắt đầu suy nghĩ và xem xét kỹ lưỡng hơn chính khái niệm nầy. Thật vậy, khái niệm nầy không thể ở đâu cũng đều có thể được hiểu cách đúng nghĩa, bao lâu nó vẫn còn lẫn lộn, chưa tách bạch rõ ràng ra khỏi hạn từ “hypostase” : thế mà Công đồng NIXÊ thì lại còn coi hai khái niệm nầy như là tương đương với nhau. Từ đó, mọi sự đều có nguy cơ trở nên lẫn lộn, khi người ta tìm cách diễn tả sự phân biệt giữa Cha và Con mà chẳng khiến các Ngài trở thành khác nhau được. Hơn nữa, hạn từ ‘homoousios’ đã tạo ra một khó khăn hết sức đặc biệt, do việc Phaolô de Samosate có lần đã thành công khiến cho Công đồng Antioche năm 264 kết án hạn từ nầy, mặc dù chẳng ai hiểu rõ từ đó có ý nghĩa là gì cả.” [5]

Cái khó khăn vốn phát xuất từ việc Thần học về sau, đặc biệt kinh viện, chẳng hiểu vì nguyên do nào, có khuynh hướng vẫn muốn sử dụng khái niệm “ousia” (bản thể), chứ không phải “natura” (bản tính) để diễn tả sự hiệp nhất nên một giữa Ba Đấng. Đó có lẽ là bước sơ sẩy đầu tiên và vô cùng hệ trọng quyết định toàn bộ số phận còn lại của nền thần học, đặc biệt Tây phương, về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi mãi cho đến sau nầy, và thậm chí cả cho đến bây giờ !

Thật vậy, nơi con người với nhau, để diễn tả nguồn gốc, người ta sử dụng khái niệm đồng bản tính, chứ không phải khái niệm đồng bản thể. Người ta có thể là đồng bản tính người như nhau, nhưng không nhất thiết là đồng bản thể, vì mỗi cá nhân (individu) là một bản thể (substantia), một trụ thể (subsistentia) riêng biệt. Vì thế, khi dùng phép loại suy áp dụng vào vấn đề Thiên Chúa-Ba Ngôi, khó khăn sẽ xuất hiện ra ngay tức khắc. Thật vậy, nếu để bảo đảm tính hiệp nhất nên một, người ta cho rằng điều đó dựa trên cơ sở chỉ có một bản thể, nhưng nếu chỉ có một bản thể nơi Mầu Nhiệm Thiên Chúa, thì trong trí tưởng tượng của nhiều người, ắt hẳn chỉ có một cá thể (individu) hay một chủ thể (sujet) hiện hữu mà thôi, và như vậy, không thể nào giải quyết được khía cạnh phân biệt nơi Mầu Nhiệm Thiên Chúa ! Đó chính là những khó khăn vốn tạo ra gai chướng, trên cơ sở nhận thức luận, nơi nhiều kitô-hữu hôm qua cũng như hôm nay, và là nguồn cội của các thứ lạc giáo trong suốt giòng lịch sử hơn hai ngàn năm của Giáo Hội kitô

II.2 Vai trò của thần học cổ điển và kinh viện 

Việc ra đời của công thức thời danh về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi: “Một yếu tính ([una essentia] hay một bản tính [una natura], hay một bản thể [una substantia]), ba Ngôi Vị (tres personae hay ba bản vị [tres hypostases])”, là kết tinh của biết bao nỗ lực suy tư thần học, cả từ Đông phương lẫn từ Tây phương, trong những thế kỷ đầu của nền thần học kitô.

Tuy nhiên, cách thành thật, phải thừa nhận rằng việc sử dụng một hạn từ duy nhất (dù đó là yếu tính, bản tính hay bản thể) để chỉ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần như những tác nhân trong sự sống thần linh, hẳn không thể nào tránh được tình trạng hàm hồ, lập lờ nước đôi; cùng lắm, những khái niệm trừu tượng đó chỉ nói lên được thần tính (divinité) của Thiên Chúa mà thôi ! Ngoài ra, việc sử dụng hạn từ “Ngôi Vị” (persona), dù có thể tăng cường lên một chút chủ thể tính nơi ý thức và tự do của các Ngôi Vị, vẫn luôn mang trong mình nguy cơ mắc vào khuynh hướng tam thần [6]. Thánh Augustinô đã thấy được cái khó khăn đó :

“Nếu người ta hỏi Ba Đấng nầy là Ai, cần phải thừa nhận sự bất túc cùng cực của ngôn ngữ loài người. Tất nhiên là thế, khi trả lời “Ba Ngôi Vị” thực ra là để khỏi rơi vào tình trạng chẳng nói gì thôi, hơn là nhằm diễn tả thực tại.” [7]

Thánh Tôma Aquinô sẽ đào sâu thêm khái niệm “Ngôi Vị” (persona) mà Thánh Augustinô đã khai mào mà chưa có điều kiện triển khai, với mong ước cung cấp cho nó một nền móng hữu thể học, qua khái niệm “tương quan” (relatio), và “tương quan trụ tồn” (relatio subsistens). Tuy nhiên, trong ngôn ngữ loài người, “tương quan” vốn là khái niệm trừu tượng, không có “ngôi vị tính’ hay “chủ thể tính”, vì thế, cho dù Thánh Tôma Aquinô và sau đó thần học kinh viện, có lý giải tinh vi thế nào đi nữa, thì cũng chẳng mấy ai hiểu gì cả ! Theo thiển ý, như sau nầy chúng tôi sẽ giải thích, thay vì khởi đi từ khái niệm “tương quan” để chứng tỏ “ngôi vị tính”, để dễ hiểu hơn, và hợp với ngôn ngữ Kinh Thánh hơn, có lẽ người ta nên đi theo chiều ngược lại, là nên khởi đi từ các ngôi vị để chứng tỏ các tương quan, và khởi đi từ thực tại phân biệt để chứng tỏ thực tại hiệp nhất.


II.3 Tương quan giữa hai khái niệm “Un Dieu” (“độc thần”) và “Dieu Un” (“Tôi và Cha tôi, chúng tôi là một” [Ga 10, 30]):

Để bảo vệ giáo lý độc thần cứng ngắc của mình (monothéisme), người Do Thái thời Đức Giêsu và cả sau nầy, dứt khoát không nhận có bất cứ thần linh nào khác ngoài vị Thiên Chúa của họ, cùng lắm trừ một ai đó, vốn là thụ tạo của Ngài mà Ngài nhận cho là Thiên Chúa như mình (như quan niệm của linh mục Arius đối với Đức Giêsu-Kitô)! Có vẻ như khuynh hướng chung vẫn cho rằng con người được trở nên Thiên Chúa thì dễ hơn việc Thiên Chúa trở nên con người !

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khi nói niềm tin do thái-kitô và niềm tin kitô là độc thần (monothéiste), không đon giản chỉ có nghĩa, đối với những người kitô-hữu, chỉ có một vị Thiên Chúa mà thôi (Un Dieu), mà đúng hơn, có nghĩa Vị Thiên Chúa kitô là Vị Thiên Chúa Tam Vị mà là Một (Le Dieu Un)…

Đó chính là cái nan đề mà thần học kitô ngay từ thưở sơ khai đã phải đối đầu với. Và đó có lẽ cũng chính là nguyên nhân mà thần học kitô sơ khai, cổ điển và kinh viện, vẫn cứ bám vào công thức “Một yếu tính (bản tính hay bản thể), ba Ngôi Vị”, công thức mà người ta tuyên xưng để mà tuyên xưng, chứ chẳng mấy ai hiểu được và cũng chẳng ai giải thích được ý nghĩa và nội hàm thực sự của nó là gì! Và đó cũng chính là bi kịch của hiện sinh kitô trong tương quan với Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi trong suốt bao nhiêu thế kỷ qua!

Trong môi trường Cựu Ước (từ nay viết tắt : CƯ), nơi mà hầu như mỗi thành quách, mỗi bộ tộc, mỗi nhóm dân cư đều có một vị thần riêng của mình (Đnl 32, 8), để bảo vệ căn tính dân tộc của mình, người Do Thái CƯ cho rằng cần phải bảo vệ “vị thần” của dân tộc mình bằng bất cứ giá nào, và dứt khoát không muốn để bất cứ vị thần ngoại bang nào lọt vào bên trong lãnh thổ và tâm tưởng của mình, và cuộc chiến nầy hầu như cấu thành chính lịch sử “tôn giáo” và lịch sử đời thường của dân Itraen. Apraham, Môsê và các ngôn sứ CƯ vốn là những chiến binh dũng cảm trong cuộc chiến nầy, thậm chí sẵn sàng đánh đổi bằng cả mạng sống của mình.

Tuy nhiên, không nên coi hai khái niệm “Un Dieu” (‘Một Thiên Chúa”) và khái niệm “Dieu Un” (Thiên Chúa là Một) như là đối kháng với nhau. Thật vậy, tính chất độc thần do thái (monothéisme juif) vẫn có thể được bảo đảm không nguyên chỉ với khái niệm “Một Thiên Chúa” (“Un Dieu”), mà còn cả với khái niệm “Vị Thiên Chúa là Một” (“Le Dieu Un).

“Thế mà, sự sống vĩnh hằng, đó là họ nhận ra được Cha, Vị Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai đi, là Đức Giêsu-Kitô” (Ga 17, 3).

“Tôi và Cha, Chúng Tôi là một” (Ga 10, 30).

Khi cứ khăng khăng xây dựng sự hiệp nhất Thiên Chúa (hay đúng hơn là giáo thuyết độc thần cứng nhắc của người Do Thái) trên cơ sở những khái niệm trừu tượng như “yếu tính”, “bản tính”, “bản thể”, có vẻ như khuynh hướng thần học cổ điển và kinh viện vẫn chưa thoát ra được khỏi môi trường “đối kháng” nầy. Điều nầy có vẻ như còn được biểu lộ nơi việc khoa thần học về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi trước đây thường luôn bắt đầu với khảo luận “De Deo Uno”, rồi sau đó mới đề cập đến khảo luận “De Deo Trino”. Trình tự nầy chứng tỏ cho thấy qui trình của thần học cổ điển và kinh viện không hẳn là xuất phát từ “sự hiệp nhất” (unité) để chứng tỏ “sự phân biệt” (distinction) mà đúng hơn là xuất phát từ khái niệm “một” (una substantia) để minh chứng khái niệm “ba” (tres personae). Ngõ cụt mà khuynh hướng thần học cổ điển nầy vấp phải, cho đến nay vẫn chưa thoát ra được…

Thái độ thờ ơ, xa lánh, thậm chí sợ hãi của phần đông các kitô-hữu trong suốt bao nhiêu thế kỷ qua, đối với thần học và giáo thuyết về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi chẳng lẽ chẳng nói gì với chúng ta hay sao? Liệu đó có phải là cung cách duy nhất để tiếp cận với Mầu Nhiệm nầy?

Chúng tôi không nghĩ như vậy!

Nhân tiện đây, chúng tôi cũng xin phép lưu ý rằng thực tại thần linh tam vị - theo Raimon Panikkar, một nhà thần học dòng Tên nổi tiếng – không phải là một khái niệm độc quyền của kitô-do thái giáo mà thôi. Trên thực tế, khái niệm thần linh tam vị nầy vẫn được phát hiện thấy, dù dưới những biểu tượng khác nhau, trong phần lớn các nền văn hóa của nhân loại (như Ấn Độ, Trung Hoa, Ai Cập, vùng Lưỡng Hà Địa,v.v…). Raimon Panikkar gọi đó là một kinh nghiệm có từ nguồn gốc sơ nguyên của loài người. [8]

Một trong những nguyên nhân dẫn đưa khuynh hướng thần học cổ điển và kinh viện đến chỗ bế tắc không lối thoát, đó là bởi vì nỗ lực suy tư thần học về Thiên Chúa-Ba Ngôi đã đi theo một qui trình ngược. Thật vậy, trong khi qui trình suy tư của ngôn ngữ Kinh Thánh về Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, đi từ các Chủ Thể đến các tương quan, đi từ cái đa bội (le Multiple, distinction) đến cái đơn nhất (l’un), thì nỗ lực suy tư thần học cổ điển và kinh viện lại đi từ những khái niệm trừu tượng (yếu tính, bản tính, bản thể, tương quan) để đến cái cụ thể (các Ngôi Vị), và đi từ cái đơn nhất cứng ngắc là bản thể, để đến cái đa bội phân biệt (Ba Ngôi Vị) mà Thánh Augustinô đã thú nhận là chẳng biết nên hiểu chúng là gì!

(còn tiếp)

 

Lm. Phêrô NGUYỄN THIÊN CUNG

Gp Phan Thiết


[1] I. Kant, “Le conflit des facultés”, in Oeuvres philosophiques 3, Paris, Gallimard, 1986, trg. 841.

[2] Bruno Forte, Mầu Nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi như một lịch sử, Bản Việt ngữ của Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung, Nxb. Tôn Giáo 2010, trg. 18.

[3] Bruno Forte, id., Nxb. Tôn Giáo, 2010, trg. 18.

[4] Joseph Moingt SJ – Bernard Sesboüé SJ, Traité de la Trinité, bản Việt ngữ của linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung,  “Quá trình phát triển tín điều Thiên Chúa-Ba Ngôi”, nxb. Tôn Giáo 2010, trg. 138-139.

[5] Joseph Moingt SJ – Bernard Sesboüé SJ, Id., trg. 128-129.

[6] Bruno Forte, Id., trg. 203.

[7] Saint Augustin, De Trinitate 5, 9, 10.

[8] Raimon Panikkar SJ, La Trinité, une expérience humaine primordiale, Éd. du Cerf, Paris 2003.



(Theo giaolyductin.com)

BÀI CÙNG CHUYÊN MỤC:

 Lương tâm [12.01.2015 20:06]
 Linh mục, Người là ai? [22.04.2013 15:11]
BÀI MỚI NHẤT:

 Hòa Bình theo Kinh Thánh [02.07.2023 23:57]



Highslide JS
Sơ đồ đường đi đến giáo xứ Vườn Chuối
Bản quyền (c) 2010 thuộc về GIÁO XỨ VƯỜN CHUỐI
Địa chỉ: 199/40/6 Cách Mạng Tháng Tám , Phường 4, Quận 3, TP. HCM
Thiết kế web Ngôi Sao Số